• Khái niệm và phân loại hệ thống giáo dục theo bậc đào tạo

    1. Khái niệm về hệ thống giáo dục đại học

    Hệ thống giáo dục đại học ở các nước được tổ chức theo đặc trưng của mỗi quốc gia, phù hợp với bối cảnh thực trạng, mục tiêu của chính sách giáo dục đại học và nguồn lực dành cho giáo dục đại học. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục đại học của các nước có những điểm thống nhất có thể mô tả như sau:

    Hệ thống giáo dục đại học hoặc có cách gọi khác là mạng lưới giáo dục đại học là hệ thống các trường cho giáo dục sau phổ thông trung học bao gồm cả đại học và cao đẳng. Hệ thống các trường đại học có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau; tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu để áp dụng các tiêu chí khác nhau trong cách phân loại các trường đại học.

    [caption id="attachment_240" align="alignnone" width="500"]

     

    Khái niệm và phân loại hệ thống giáo dục theo bậc đào tạo[/caption]

    Tham khảo thêm: Mục tiêu và vai trò của giáo dục trong giai đoạn hiện nay

    2. Phân loại theo bậc đào tạo

    Nếu theo cách phân loại này thì hệ thống giáo dục đại học gồm có: trường cao đẳng, trường đại học và các viện nghiên cứu có nhiệm vụ đào tạo sau đại học bậc tiến sĩ.

    Phân loại theo theo sở hữu [79] gồm có: Các trường đại học công lập: các trường thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất.

    Các trường đại học tư thục thuộc sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân. Kinh phí lấy từ các khoản tài trợ, học phí, tiền trợ cấp nghiên cứu và các khoản đóng góp từ sinh viên.

    Một số nước còn phân loại thêm các cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài.

    Phân loại theo sứ mạng của cơ sở giáo dục đại học (theo phân tầng giáo dục đại học)

    Phân lớp 1: các trường đại học định hướng nghiên cứu, chủ yếu nhằm phục vụ các đỉnh cao và các lĩnh vực có lợi thế so sánh, chương trình đào tạo theo kiểu của ĐH truyền thống.

    Phân lớp 2: các trường đại học “đại trà”, nhằm phục vụ trực tiếp các hoạt động kinh tế xã hội. chương trình đào tạo hướng tới thực hành và kỹ năng áp dụng kiến thức vào thực tế, thiên về “kỹ thuật nghề nghiệp” .

    Phân lớp 3: là các trường đào tạo trình độ Cao đẳng, chủ yếu phục vụ loại nhu cầu phổ cập. chương trình đào tạo nặng về thực hành, ngành nghề phải phù hợp với nhu cầu của địa phương /cộng đồng.

    Xem thêm: Vai trò của giáo dục trong giai đoạn hiện nay

    Yêu cầu về phân tầng là xu thế tất yếu của giáo dục đại học thế giới cũng như yêu cầu cấp thiết của giáo dục đại học Việt Nam. Trên thế giới không có một nước nào có đủ nguồn lực để đảm bảo đầu tư cho tất cả các trường ĐH có “chất lượng cao như nhau” với một mô hình duy nhất theo kiểu tổ chức ở các ĐH truyền thống trước đây nên việc phân hạng trường đại học tương xứng với trách nhiệm, sứ mạng và năng lực của trường đại học là cần thiết. Nếu dựa vào kết quả phân tầng làm cơ sở để đầu tư cho giáo dục đại học thì cần có các nghiên cứu chuyên sâu về tiêu chí xác định và những điều kiện để xây dựng trường đại học nghiên cứu. Đối với các trường đại học, tiêu chí xác định trường đại học nghiên cứu là căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển, tuyên bố sứ mạng. Theo tác giả để xác định các điều kiện đặc trưng của trường đại học nghiên cứu có thể tiếp cận các quan điểm sau:

    Xem thêm: Khái niệm về hệ thống giáo dục đại học Hệ thống giáo dục đại học 


    votre commentaire
  • Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ

    [caption id="attachment_385" align="alignnone" width="450"]Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ[/caption]

    Khi các CTCP thực hiện theo đúng quy định của pháp luật thì quyền lợi của cổ đông nhỏ cũng chưa được thể hiện rõ nét trên thực tế. Bởi CTCP là công ty đối vốn, quyền quyết định thuộc cổ đông hoặc nhóm cổ đông có vốn chiếm tỷ lệ cao. Cổ đông góp vốn nhiều, chịu nhiều rủi ro thì đương nhiên họ sẽ được hưởng nhiều quyền lợi hơn. Đây là quy định hợp lý cả về mặt lý luận lẫn mặt thực tế nhưng phải có biện pháp bảo vệ quyền của cổ đông nhỏ trong CTCP. Vấn đề này, theo TS Nguyễn Đình Cung, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), các cổ đông có thể tập hợp nhau lại thành Câu lạc bộ của nhà đầu tư thiểu số, nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cùng nhau góp tiếng nói chung, nâng cao sức mạnh của mình12.

    Xem thêm:

    Khái niệm và đặc điểm của chứng cứ trong Luật Hình Sự

    Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ

    Tỷ lệ cổ phần/cổ phiếu của nhóm cổ đông thể hiện sức mạnh của mình là từ 10% trở lên. Với tỷ lệ này, nhóm cổ đông sẽ có các quyền quy định tại khoản 2, Điều 79, Luật DN:

    – Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát (nếu có);

    – Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hàng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;

    – Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này;

    – Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết.

    – Và các quyền khác do điều lệ công ty quy định.

    Nếu tỷ lệ cổ phần của nhóm cổ đông đạt hơn 20% tổng số cổ phần trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng, nhóm cổ đông còn có thể thực hiện các quyền quyết định quan trọng hơn nữa, có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với CTCP lâm vào tình trạng phá sản.

    Chúng ta đã đề cập phần đầu, với tỷ lệ vốn góp 10% để có các quyền tại khoản 2, Điều 79, Luật DN là khá cao. Trong thời gian tới, Luật DN nên được sửa đổi, điều chỉnh tỷ lệ này xuống còn 5%, vừa phù hợp với thực tế nguồn vốn điều lệ của các CTCP hiện nay, vừa tương đồng với quy định của Luật Chứng khoán ban hành năm 2007.

    Quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ phải được đảm bảo bằng những biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp tư pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự 2003 quy định: Cổ đông có quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp: (1) Trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty; (2) Trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty13. Cổ đông nhỏ sẽ khởi kiện đến Toà án có thẩm quyền nếu Hội đồng quản trị không triệu tập họ dự họp. Nhưng các cơ quan có thẩm quyền phải hướng dẫn cụ thể để Các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi quyền của cổ đông nhỏ.

    Các cổ đông nhỏ tham gia CTCP với vốn góp ít phải nghiên cứu kỹ càng về công ty, Bản điều lệ công ty và xác định mục đích của mình (cổ tức và lãi vốn chẳng hạn). Cổ đông nhỏ được luật pháp trao cho quyền nhất định để tự bảo vệ mình, nhưng cũng đừng quên quyền chỉ giới hạn trong số vốn góp.

    Tóm lại, khi chúng ta có những cơ chế đảm bảo quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ là chúng ta bước đầu thực hiện quyền của họ. Bởi quyền dự họp Đại hội cổ đông là nền tảng để cổ đông nhỏ thực hiện các quyền khác của mình. Nhưng thực tế, quyền dự họp đang trở thành vấn đề nóng bỏng do các CTCP đang vi phạm. Thiết nghĩ, chúng ta cần chấn chỉnh lại việc thực thi Luật DN, sau đó phải có định hướng cho các cổ đông nhỏ biết liên kết, tự bảo vệ quyền của mình. Cuối cùng, quyền đó phải được bảo đảm từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật. Như thế, môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ được cải thiện trong thời gian tới.

    Xem thêm: https://dichvuluanvan.quora.com/cac-noi-dung-hoan-thien-phap-luat-ve-quyen-du-hop-cua-co-dong-nho


    votre commentaire
  • 1. Xây dựng và đổi mới căn bản khuôn khổ hệ thống pháp luật, thể chế điều chỉnh hoạt động của NHNN và các Tổ chức Tín dụng.

    Để triển khai Đề án phát triển ngành NH Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24 tháng 05 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ, Luật NHNN Việt Nam và Luật Các TCTD đã được xây dựng và trình Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 (từ 20/5-19/6/2010), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Có nhiều điểm mới trong 2 Luật: hai Luật mới đã kế thừa và phát huy những ưu điểm, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành về tổ chức, hoạt động của NHNN cũng như việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát hoạt động của các TCTD.

    Luật NHNN Việt Nam gồm 7 chương và 66 điều. Về vị thế, NHNN vần là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là NHTW của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thống đốc NHNN vẫn là thành viên Chính phủ. Nhưng Luật NHNN đã quy định cụ thể hơn về vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó quy định cụ thể thẩm quyền và tính tự chủ của NHNN trong việc thực thi chính sách tiền tệ và quyết định sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ. Theo đó, Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Ở đây, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; và Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên thẩm quyền cụ thể của mỗi cấp này lại cần được tiếp tục làm rõ trong các văn bản dưới luật. Đặc biệt về lãi suất ngân hàng, Luật quy định lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh mà là cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, Luật NHNN cũng quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của NHNN trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của NHTW nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường.

    [caption id="attachment_236" align="alignnone" width="700"]

     

    Xây dựng và đổi mới khuôn khổ hệ thống pháp luật trong hoạt động NHNN và tổ chức tín dụng[/caption]

    Xem thêm:

    + Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ

    + Khái niệm và đặc điểm của chứng cứ trong Luật Hình Sự

    Đồng thời, Luật NHNN cũng khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh tra, giám sát ngân hàng với thanh tra hành chính thông thường; mở rộng phạm vi giám sát đối với toàn bộ hoạt động của TCTD, các hoạt động của công ty con, công ty liên kết của TCTD; thẩm quyền của NHNN trong việc can thiệp, xử lý sớm các TCTD nhằm ngăn chặn kịp thời khả năng đổ vỡ… Về thẩm quyền của NHNN can thiệp vào TCTD, Luật cho phép NHNN áp dụng một số biện pháp đặc biệt để xử lý các TCTD vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về tiền tệ và ngân hàng hoặc gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng như mua cổ phần của TCTD, đình chỉ có thời hạn, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của TCTD; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể TCTD; đặt TCTD vào tình trạng kiểm soát đặc biệt (trong đó, mua cổ phần là một cơ chế can thiệp mới, mạnh, nhanh hơn so với cơ chế cho vay đặc biệt). Trong trường hợp cho vay đặc biệt, hoạt động của NHNN cũng rộng hơn: NHNN được cho vay không những đối với các TCTD đã “lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả” như quy định trong Luật hiện hành mà cả đối với TCTD hoạt động bình thường nhưng “có nguy cơ mất khả năng chi trả do các sự cố nghiêm trọng khác” để bảo đảm có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng …

    Luật Các TCTD bao gồm 10 chương 163 điều. So với Luật các TCTD năm 1997, phạm vi điều chỉnh của Luật mới đã được quy định cụ thể hơn và bỏ phần quy định về các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng. Mặt khác, Luật Các TCTD cũng đã mở rộng phạm vi điều chỉnh về thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các TCTD, trong đó, tổ chức quản lý là nội dung có thay đổi nhiều nhất. Liên quan đến việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động TCTD, Luật quy định cụ thể các điều kiện cấp phép đối với từng loại hình TCTD theo hướng nâng cao các yêu cầu, tiêu chí về đảm bảo an toàn của từng TCTD và cả hệ thống, điều kiện cấp phép được rà soát vừa chặt chẽ vừa tuân thủ các cam kết của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Một thay đổi căn bản là nội dung quy định về những thay đổi cần chấp thuận của NHNN. Luật đã bỏ bớt quy định về sự chuẩn y của NHNN với những thay đổi về nhân sự chủ chốt, đăng ký điều lệ nhằm giảm bớt thủ tục hành chính và tăng quyền tự chủ cho TCTD.

    Luật NHNN và Luật Các TCTD có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, như vậy NHNN có hơn 6 tháng để chuẩn bị cho việc ban hành các nghị định, văn bản hướng dẫn. Đây là một công việc nặng nhọc. Luật các TCTD trước được ban hành ngày 24/06/2004, và Luật NHNN 26/06/2003. Từ đó đến nay 15 nghị định của Chính phủ liên quan đến việc thực hiện hai luật trên được ban hành, còn thông tư, quyết định thì hàng trăm. Riêng với Luật NHNN, phải hơn năm năm sau, Nghị định số 96/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của NHNN mới được ban hành. Gần đây nhất, ngày 12/02/2010 Nghị định số 10/2010/NĐ-CP về hoạt động thông tin tín dụng mới được ban hành. Luật mới đã được thông qua, nhưng hướng dẫn thực hiện luật hiện hành thì vẫn chưa hoàn tất. Tương tự, để Luật các TCTD có thể thực hiện, sơ sơ cũng cần 50 văn bản hướng dẫn của NHNN và 5 đến 10 nghị định của Chính phủ. Chẳng hạn “Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục, tổng mức sở hữu tối đa, tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài tại TCTD” (điều 16, khoản 2); “Chính phủ quy định thành lập, tổ chức, quản lý và hoạt động của ngân hàng chính sách” (điều 17, khoản 2); “Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” (điều 19, khoản 1); “Chính phủ quy định điều kiện cụ thể để công ty tài chính thực hiện các hoạt động kinh doanh” (điều 108, khoản 2); “Chính phủ quy định việc góp vốn mua cổ phần”(điều 149, khoản 4); “Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể hoạt động của các chương trình, dự án tài chính vi mô” (điều 161, khoản 6)… Còn liệt kê các điều khoản chờ NHNN quy định thì phải vài trang giấy. Tính ra mỗi tháng bình quân phải có ít nhất 10 nghị định, thông tư hướng dẫn hai luật trên ra đời cho kịp thời hạn luật có hiệu lực. Tức là ba ngày phải có một văn bản hướng dẫn. Vậy bộ máy của NHNN phải “chạy” với tốc độ nào mới xây dựng đủ văn bản hướng dẫn để triển khai luật vào đầu năm 2011.

    Xem thêm: Xây dựng và đổi mới căn bản khuôn khổ hệ thống pháp luật


    votre commentaire
  • 1. Khái niệm chứng cứ:

    Một vụ án hình sự xảy ra bao giờ cũng để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể hiện dưới những hình thức khác nhau, mà những dấu xết này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào những dấu vết đã thu thập được để khởi tố, truy tố hay xét xử một người đã có hành vi phạm tội. Nhưng dấu vết đó được gọi là chứng cứ.

    Chứng cứ trong tố tụng hình sự là những gì có thật, có liên quan đến vụ án, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

    em va

    Khái niệm và đặc điểm của chứng cứ trong Luật Hình Sự[/caption]

    Chứng cứ được xác định bằng:

    - Vật chứng;

    - Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;

    - Kết luận giám định;

    - Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

    Xem thêm: Xây dựng và đổi mới khuôn khổ hệ thống pháp luật trong hoạt động NHNN và tổ chức tín dụng

    2. Đặc điểm chứng cứ:

    Có 3 đặc điểm:

    - Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.

    - Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.

    - Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ.
    Trong thực tế, tính hợp pháp của chứng cứ được xác định thông qua hoạt động chứng minh được toà án và tất cả người tham gia tố tụng thực hiện và tuân thủ.

    Xem thêm: Các nội dung hoàn thiện pháp luật về quyền dự họp của cổ đông nhỏ

    * MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ:

    Điều 11 BLTTHS có quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

    Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.

    Như vậy, khi luật sư- người bào chữa được khách hàng mời bào chữa cho họ, tức là luật sư được tham gia vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử, được đọc các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án đó. Và để tham gia vào vụ án hình sự, luật sư được trao một số quyền, trong đó có những quyền liên quan đến chứng cứ, như:

    - Phát hiện và thu thập chứng cứ.

    - Đánh giá chứng cứ.

    - Sử dụng chứng cứ.

    Cụ thể, tại Điều 58 BLTTHS quy định “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa”:

    - Thu thập, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bị mất nhà nước, bị mất công tác;

    - Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu:

    Khi làm công việc trên, luật sư phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật, như “Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án”.

    Tuy nhiên, Mục đích của luật sư trong quyền đưa ra chứng cứ khác với những cơ quan và người tiến hành tố tụng, bởi luật sự, trước hết là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, sau nữa góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khác nhau về vụ án. Trong thực tế, cũng có trường hợp, luật sư không được sử dụng chứng cứ thu thập được, bởi nếu sử dụng chứng cứ đó sẽ làm xấu đi tình trạng của thân chủ. Đó là trong trường hợp, bị can không thừa nhận tội lỗi, nhưng trong quá trình tìm hiểu vụ việc, luật sư phát hiện ra những chứng cứ buộc tội bị can, vì vậy, luật sư không có quyền đưa ra chứng cứ đó, bởi như vậy sẽ vi phạm đức đức nghề nghiệp, khi đó luật sư chỉ có thể từ chối bào chữa mà thôi.

    Xem theme: Khái niệm và đặc điểm của chứng cứ trong Luật Hình Sự


    votre commentaire
  • Giới thiệu tới bạn đọc đề cương luận văn Luật hành chính cho đề tài "Quyền xét xử công bằng và vấn đề bảo đảm quyền xét xử công bằng ở Việt Nam".

    [caption id="attachment_220" align="alignnone" width="660"]

    Giới thiệu tới bạn đọc đề cương luận văn Luật hành chính[/caption]

    Đề cương luận văn Luật hành chính

    Trang phụ bìa

    Lời cam đoan

    Mục lục

    Danh mục chữ viết tắt

    MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1

    Tham khảo thêm: Đề cương luận văn Luật kinh tế: “Luận văn Pháp luật về cạnh tranh tại Việt Nam”

    Chương 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG

    1.1. Khái quát về Quyền được xét xử công bằng ....................................................6

    1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền được xét xử công bằng .................................6

    1.1.2. Nội dung cơ bản của quyền được xét xử công bằng ......................................11

    1.2. Vai trò, vị trí và tầm quan trọng của quyền được xét xử công bằng..............22

    1.2.1. Xét xử công bằng là công cụ, phương tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền con người ..................22

    1.2.2. Xét xử công bằng là nhân tố quan trọng của pháp quyền ..............................24

    1.2.3. Xét xử công bằng là cơ sở của an ninh con người, phát triển kinh tế - xã hội. ..................26

    1.3. Hậu quả của việc vi phạm quyền được xét xử công bằng..............................28

    1.3.1. Hậu quả do vi phạm quyền xét xử công bằng đối với quyền sống ................28

    1.3.2. Hậu quả do vi phạm quyền xét xử công bằng đối với các quyền tự do .........30

    1.3.3. Hậu quả do vi phạm quyền xét xử công bằng với các quyền dân sự – chính trị khác...................31

    1.3.4. Hậu quả do vi phạm quyền xét xử công bằng đối với các quyền về sở hữu, quyền nhân thân và một số quyền kinh tế- xã hội và văn hóa ...............32

    1.4. Bảo vệ quyền được xét xử công bằng là một thách thức toàn cầu.................32

    Xem thêm: Mẫu đề cương chi tiết luận văn Luật hình sự

    Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG Ở VIỆT NAM

    2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng: Những nét tương đồng với luật quốc tế và những hạn chế, bất cập...............34

    2.1.1. Quyền bình đẳng trước tòa án, được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị và công khai .......34

    2.1.2. Quyền được suy đoán vô tội...........................................................................36

    2.1.3. Quyền bào chữa..............................................................................................40

    2.1.4. Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên ................42

    2.1.5. Quyền kháng cáo............................................................................................44

    Tham khảo thêm: Mẫu đề cương chi tiết luận văn Luật hình sự


    votre commentaire


    Suivre le flux RSS des articles de cette rubrique
    Suivre le flux RSS des commentaires de cette rubrique